Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 17
  1. #1

    Những bóng hồng trong thơ nhạc

    Em lập thớt này dành cho các bác mê dòng nhạc tiền chiến (mà em là 1 fan trung thành ). Đây là loạt bài của Hà Đình Nguyên đăng trên báo Thanh niên. Các bác có bài hoặc clip hay thì post để cả nhà cùng thưởng thức nhé.

  2. #2

    Ngày tham gia
    Jun 2013
    Bài viết
    0
    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh thuộc thế hệ nhạc sĩ thứ 2 của nền tân nhạc VN. Tuy nhiên, ông chỉ để lại vài tác phẩm, trong đó nổi bật là các ca khúc Chiều vàng và Nỗi lòng...

    “Ngón nghề độc chiêu” của Nguyễn Văn Khánh là chơi đàn guitar Hawaienne (Hạ uy cầm). Không biết ông học từ ai, nhưng theo Hoài Nam trong 70 năm tình ca âm nhạc Việt Nam (Đài SBS, Úc, thực hiện) thì trước 1954, ở Hà Nội chỉ có 2 nhạc sĩ chuyên đàn và sáng tác cũng như dạy đàn bằng Hạ uy cầm là William Chấn (thầy của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn) và Nguyễn Văn Khánh. Riêng ông Khánh lại đánh đàn bằng tay trái, cho nên “nếu không phải là… thiên tài thì cũng là người có khả năng đặc biệt”. Cùng thời với ông là những nhạc sĩ: Hoàng Dương, Hoàng Trọng, Nguyễn Thiện Tơ, Hoàng Giác, Tu My, Hùng Lân… góp phần làm nên thời cực thịnh của tân nhạc VN thập niên 1944-1954…

    Dạo nền tân nhạc mới thành hình ở nước ta (đầu thập niên 1940), “các chàng nghệ sĩ Tây nhạc” luôn là thần tượng của nhiều cô gái, nhất là ở các chốn thị thành. Ở Hà Nội, Nguyễn Văn Khánh mở lớp dạy Hạ uy cầm và Tây ban cầm ở gần ga Hàng Cỏ (lối đi xuống chợ Khâm Thiên), phía trước nhà có một cái ao, bên kia ao là nhà trọ của các nữ sinh. Những đêm trăng sáng, Khánh đem đàn ra sân chơi, tiếng đàn Hạ uy cầm réo rắt… Phía bên kia ao, đám nữ sinh rủ nhau ra ngồi nghe đàn trông như một đàn cò trắng.


    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh

    Vậy mà ở gần đó, ngay phố Khâm Thiên, có một thiếu nữ đẹp người, đẹp nết nhưng lại chẳng chút động lòng hoặc tơ tưởng đến “các chàng nghệ sĩ Tây nhạc”, nàng chỉ chăm lo phụ giúp cha mẹ. Cô gái ấy tên Đặng Thị Thuận. Cô gái không màng đến những chàng nghệ sĩ hào hoa kia lại “bị” bà dì của mình mai mối cho Nguyễn Văn Khánh. Lúc đầu, cô Thuận cứ “ứ thèm”, chẳng cần biết Khánh là ai, thậm chí khi nhà trai đem lễ vật đến chạm ngõ, cô cũng chẳng thèm… len lén xem mặt anh chàng kia như những cô gái khác thường làm. Ấy thế nhưng, bà chị dâu của cô lại xăng xái: “Mày không chịu, nhưng cứ để tao xem cái mặt mẹt của nó xem sao!”. Lát sau, bà chị dâu ấy chạy vào bếp, mách: “Tao thấy mặt mũi nó cũng được đấy, Thuận à!”… và được sự “động viên” của những người thân trong gia đình, cô Đặng Thị Thuận chính thức trở thành bà Nguyễn Văn Khánh vào đầu năm 1942. Khi ấy cô 20 tuổi!


    Vợ chăm chồng viết nhạc cho người yêu


    Cuộc hôn nhân tuy không hình thành từ tình yêu trước đó nhưng không vì thế mà cô Thuận đẹp người, đẹp nết lại quên mất cái “nết” của mình. Cô một mực ân cần chăm lo cho chồng, thậm chí lo cả cho gia đình nhà chồng. Có lẽ cảm được tấm chân tình của vợ nên mấy năm đầu của cuộc hôn nhân này ông Khánh “tu chí”, thường xuyên ở nhà (bởi sau đó là quãng thời gian dài ông đi phiêu bạt giang hồ). Thời gian này, ông cất căn nhà nhỏ, không xa ngôi nhà chính là mấy, vì căn nhà nhỏ ấy nằm lúp xúp bên một gốc đa nên cả nhà và cả chính ông đều gọi một cách thân thương là “cái miếu”. Đó là không gian riêng của ông, nơi ông ngồi để sáng tác các ca khúc riêng tặng… những người phụ nữ khác! (thực ra ca khúc đầu tay của Nguyễn Văn Khánh có tựa là Thu, viết năm 1946 được riêng tặng cho vợ, nhưng vì tặng vợ nên cô Thuận cất làm kỷ niệm, thành ra không phổ biến), còn những Chiều vàng, Nỗi lòng, Nghệ sĩ với cây đàn, Lời thề xưa, Chiều gặp gỡ... (sáng tác từ năm 1951 trở về sau) đều viết cho những phụ nữ khác. Mỗi khi viết xong một ca khúc, ông Khánh thường tự tay mang lên Đài phát thanh Hà Nội rồi tự hát: Yêu ai, yêu cả một đời. Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta. Đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ...” (Nỗi lòng). Rồi “…Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng. Tình tràn đầy sầu chung non nước. Hồn em có cùng người chứng minh. Anh bước ra đi luyến tiếc hoài. Đời còn có em nay là thôi... (Chiều vàng).


    Bà Thuận - vợ ông Khánh - Ảnh: tư liệu


    Chuyện ông viết ca khúc vì những người phụ nữ khác là có thật (trừ bài Thu). Người nhà ông kể rằng bài Nghệ sĩ và cây đàn được ông viết sau chuyến đi Bắc Ninh thăm người yêu cũ nhưng không gặp. Lạ một điều, mỗi lần ông ngồi viết nhạc trong “miếu” thì lúc nào bà Thuận cũng ngồi phía sau cầm quạt, quạt cho ông. Bà không biết tí gì về âm nhạc, cũng chẳng quan tâm ông viết nhạc cho ai ngoài việc tôn trọng chồng và tôn trọng nghề nghiệp của chồng…

    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh mất ngày 20.8.1976, bà Thuận tính, vậy là bà làm vợ ông những 34 năm, nhưng khoảng thời gian ông ở cạnh bà chỉ bằng một phần ba con số đó. Hai phần ba thời gian còn lại ông đuổi theo những cuộc tình khác, và người khiến cho ông “bận bịu” nhất là Lê Thị Sâm - bà này đẻ cho ông Khánh những 7 đứa con. Tuy thế, vào năm 1973 bà Sâm cũng quyết liệt xua đuổi “bố của bầy trẻ” ra khỏi nhà khi ông bị chứng viêm quai hàm - giai đoạn cuối. Bà Thuận lại mở rộng vòng tay đón “chàng nghệ sĩ Tây nhạc… đa tình” trở về mái nhà xưa lo thuốc thang. Chẳng những thế, bố chồng của bà lại năn nỉ cô con dâu “đẹp người, đẹp nết” đưa 2 đứa con quặt quẹo của chồng bà với bà Sâm (5 người con trước của họ mất vì bệnh) về nuôi “làm phúc”. Ai cũng khen bà nhân hậu, cao thượng, bà chỉ cười, khiêm tốn: “Tôi chỉ được cái nuôi con nhỏ “mát tay”!”. Bà Sâm mất năm 1979, không thấy được hai người con của mình giờ đây đã được nuôi dạy nên người…

  3. #3

    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Bài viết
    0
    Số tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Giác chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhưng trong số đó đã có 2 tuyệt phẩm là Mơ hoa và Ngày về. Đó là niềm hạnh phúc và cũng là “tai ương” cho tác giả.

    Định mệnh đã đưa đến cho nhạc sĩ Hoàng Giác một người vợ “trên cả tuyệt vời” để đồng cam cộng khổ, để là điểm tựa tinh thần cho chồng trong giai đoạn lao đao nhất của đời mình. Nói về sắc đẹp, bà Kim Châu (vợ nhạc sĩ) được tôn vào hàng “giai nhân đất Hà thành”. Biết bao chàng công tử phong lưu cầu cạnh được kề cận bên người đẹp, thế nhưng bà Kim Châu đã rũ bỏ tất cả để về “nâng khăn sửa túi” cho chàng nhạc sĩ tuy nghèo nhưng rất mực tài hoa, đúng như ước nguyện của mình.

    Hoàng Giác sinh năm 1924, gốc làng Chèm (xã Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội). Làng Chèm có nghề làm chả giò truyền thống trong câu thành ngữ “giò Chèm, nem Vẽ”. Cha của ông là một nghệ nhân chơi đàn bầu rất hay đồng thời cũng là một võ sĩ quyền anh, từng giữ chức Chủ tịch Liên đoàn Quyền anh Bắc kỳ. Hoàng Giác được theo học ở Trường Bưởi - một ngôi trường rất nổi tiếng thời đó. Bạn học cùng lớp với ông nhiều người sau này trở thành những nhạc sĩ nổi tiếng như Dzoãn Mẫn (tác giả Biệt ly), Ngọc Bích (tác giả Mộng chiều xuân), Đoàn Chuẩn (tác giả Thu quyến rũ)... Hoàng Giác được học nhạc trong nhà trường nhưng cũng giống bạn bè đồng lứa, còn mày mò tự học thêm. Những sáng tác đầu tay của thế hệ ấy đa phần ra đời trong giai đoạn này.
    Người đẹp Hà thành

    Nhưng bản nhạc đầu tay của Hoàng Giác không phải làm tặng cho... người đẹp Kim Châu. Ông kể: “Lúc bấy giờ, chúng tôi phần nhiều ở lứa tuổi 18, 19, cho nên rất mơ ước có những bài hát của người Việt làm với lời Việt. Lứa tuổi chúng tôi lúc đó hầu hết là học sinh, đều say sưa viết. Mơ hoa cũng là một trong những bài tôi viết thời đó. Đấy là năm 1945, tôi vừa tốt nghiệp Trường Bưởi, ở gần nhà tôi có một thiếu nữ trong Hà Đông ra, cô mới tuổi 16 thôi. Dáng người cô thon nhẹ, tóc dài. Chúng tôi gặp gỡ, trao đổi và có những tình cảm quyến luyến như những chàng trai, cô gái tuổi mới lớn khác. Nhìn cô, tôi liên tưởng ngay đến các cô ở làng hoa Ngọc Hà mà sáng sáng tôi hay gặp trên đường đi học. Thế là tôi mơ ước viết một bài để tặng cô ấy, tức nhiên trong lòng đã mang một giấc mơ. Và đấy là bản nhạc đầu tay trong cuộc đời sáng tác của tôi”.


    Bà Kim Châu thời trẻ - Ảnh: Tư liệu

    Không chỉ biết sáng tác, cậu thanh niên Hoàng Giác còn sở hữu một giọng hát trầm ấm và điêu luyện, thế nên cô thiếu nữ - hoa khôi đường Quán Thánh sau vài lần theo bố mẹ đến dự những buổi trình diễn ca nhạc ở Nhà hát Lớn đã thấy hồn mình rung động, thầm ao ước chàng nghệ sĩ hào hoa kia là ý trung nhân của mình.

    Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ, Hoàng Giác hăng hái tham gia. Trong Tuần lễ vàng ở Hà Nội, Hoàng Giác đăng đàn diễn thuyết. Tài ăn nói của chàng đã thu về nhiều thắng lợi cho ngân sách của chính phủ non trẻ. Trong đám đông đứng nghe, có cả “giai nhân đường Quán Thánh”, cô lặng lẽ tháo tất cả vòng, xuyến bỏ vào thùng ủng hộ cách mạng. Và cũng như những buổi nghe hát ở Nhà hát Lớn, trong tâm tư cô cũng thổn thức ước nguyện.

    Nhưng cái anh chàng “phổi bò” kia thì lại quá vô tình... chẳng biết gì sất! Đến khi toàn quốc kháng chiến, Hoàng Giác tham gia Đoàn Tuyên truyền xung phong và một tuyệt phẩm nữa được ra đời vào năm 1947, ca khúc Ngày về: “Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm. Nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi. Luyến tiếc bao ngày xanh... Tha thiết mong tìm về bạn cũ. Nhưng cánh chim mịt mùng bạt gió. Vắng tiếng chim xanh ngày vui hót tung mây. Mờ khuất xa xôi nghìn phương...”.

    Tác phẩm của Hoàng Giác không chỉ có Mơ hoa và Ngày về mà còn có cả Lỡ cung đàn, Quê hương, Hương lúa đồng quê, Bóng ngày qua... và ba ca khúc hợp soạn với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ Tiếng hát biên thùy, Qua bến năm xưa và Trên đường về; nhưng nhắc tới Hoàng Giác là người ta nhớ ngay đến hai ca khúc đầu tiên, đặc biệt là Ngày về - nhạc sĩ đã làm trên đường công tác được về thăm nhà.

    Năm 1951, sáu năm sau những rung động đầu tiên trong tâm hồn thanh khiết của “giai nhân đường Quán Thánh” - định mệnh hình như cũng biết được tâm nguyện thầm kín của nàng nên đã run rủi cho song thân của Hoàng Giác cậy nhờ mai mối đi hỏi cô Kim Châu cho con trai họ. Cả Hà Nội xôn xao. Bao nhiêu chàng trai thất vọng. Cũng có người can ngăn bố mẹ nàng không nên gả con gái cho “thằng nghệ sĩ nghèo rớt mồng tơi”. Thế nhưng có ai biết được ước mơ của nàng, và nàng đã hân hoan chấp nhận lời cầu hôn. Thế là người đẹp Kim Châu trở thành “bà Hoàng Giác” năm 19 tuổi.

    Cuộc sống êm đềm của đôi vợ chồng Hoàng Giác - Kim Châu chỉ kéo dài được khoảng hơn 15 năm thì tai họa ập xuống, khi chính quyền Sài Gòn thời ấy “cắc cớ” chọn bài Ngày về làm nhạc hiệu cho chương trình “Tiếng chim gọi đàn” (tên một bài hát của nhạc sĩ Hoàng Quý) - một chương trình “chiêu hồi”. Dạo ấy, chính quyền miền Nam đã sử dụng khá nhiều ca khúc của “phía bên kia” như bài Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước trở thành quốc ca, rồi Sơn nữ ca, Lời người ra đi của Trần Hoàn, Thiên thai, Bến xuân của Văn Cao... nhưng Ngày về lại rơi vào trường hợp “nhạy cảm” nhất cho nên không chỉ tác giả mà cả gia đình của ông cũng chịu nhiều hệ lụy. Tai họa này đã biến bà Kim Châu từ một người vợ yếu đuối đã tự gắng gượng và trở thành “lao động chính”, một mình bà phải chạy vạy, lo toan chuyện cơm áo để nuôi sống chồng con. Đằng đẵng suốt bao nhiêu năm trời bà cặm cụi may vá, đan len thuê kể cả phết hồ dán bao bì. Bà không từ chối bất cứ việc gì, cho dù là nhỏ nhặt hoặc lao nhọc, miễn sao đem lại cho bà chút tiền để khả dĩ mua được thức ăn nuôi sống gia đình.

    Cực khổ như thế nhưng đó cũng là thời gian bà cảm thấy rất hạnh phúc, vì bà không chỉ được chia sẻ hoạn nạn với ông mà còn thấy... ông che mặt khóc khi chứng kiến vợ mình quá cơ cực. Và với bà, như thế cũng là một sự đền bù ấm áp.

  4. #4
    Trích dẫn Gửi bởi Head



    Vợ chăm chồng viết nhạc cho người yêu

    Cụ bà này ..dại thía nhể! Kính phục cụ! Chả bù cho các ...Gấu đương đại!

  5. #5
    Trên văn đàn Việt, những bài thơ “xuất thần” của Hoàng Cầm mang một giọng điệu hết sức lạ lùng, tứ thơ cũng thật lạ. Chính ông đã cho ra đời một thứ lá mà không ai có thể tìm thấy trên thế gian này: lá diêu bông!

    Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22.2.1922 tại xã Phúc Tằng, H.Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Cha ông vốn là một ông đồ kiêm thầy lang, quê gốc ở Song Hồ, H.Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vì người cha rời quê lên Bắc Giang dạy học và “chú nhóc” ra đời ở đấy nên ông thầy đồ đã ghép cả tên xã, tên huyện đặt thành tên cho con trai (Bùi Tằng Việt). Sau này, cậu bé ấy lại lấy tên một vị thuốc bắc rất đắng trong hộc tủ của bố làm bút danh cho mình: Hoàng Cầm.

    5 tuổi, Bùi Tằng Việt đã phải xa gia đình lên tỉnh lỵ Bắc Giang để trọ học ở nhà ông bác, và 8 tuổi đã biết... yêu. Là thế này: một buổi chiều thứ bảy “định mệnh” của năm 1930, cậu bé Việt từ Phủ Lạng Thương về thăm nhà, bất giác gặp một cô gái đến trao đổi gì đó với mẹ mình (bán hàng xén). Trái tim của cậu bé 8 tuổi như không còn đập nổi trước dung nhan của cô gái 16 tuổi. Một “coup de foudre” (sét ái tình) làm cậu choáng váng. Rồi thứ bảy tuần sau, cậu về trao cho cô gái một bài thơ “tỏ tình”, đó là bài thơ lục bát dài hơn trang giấy học trò, có vẽ hoa bướm, ngọn núi, dòng sông... viết bằng mực tím nắn nót và câu đề tặng “Em gửi chị Vinh của em”.

    Gần 70 năm sau, ký ức của lão thi sĩ Hoàng Cầm vẫn còn hiển hiện phút giây đầu tiên gặp gỡ chị Vinh, ông viết: “Trước mắt tôi, chị hiện ra rực rỡ như một thiên thần. Ngay lập tức, hồn tôi như bị chiếm đoạt đến đau điếng. Kể từ giây phút định mệnh ấy, tôi mê man chị chẳng còn biết trời đất, ất giáp, quên cả học hành sách vở, suốt ngày chỉ ngong ngóng sang bên kia đường, xê xế nhà tôi khoảng 20 mét, nơi thiên thần của tôi ngồi bán quán nghèo, phố nhỏ đìu hiu, tỉnh nhỏ... Tôi phải lòng chị, cứ thế giăng mắc tơ tình quanh chị suốt 4 năm trời, đến năm tôi 12 tuổi thì chị đi lấy chồng…” (Tám nhịp tuần du, NXB Văn học, 12.1999).

    Thế “chị Vinh” có gì đặc biệt mà khiến một con người từ thuở còn là “thần đồng thơ” đến lúc đã trở thành “đại lão thi sĩ” vẫn cứ say như điếu đổ? Hoàng Cầm viết thế này: “…Chị Vinh võ vẽ chữ nho, đọc thông quốc ngữ, quê gốc Tiên Du (Bắc Ninh - PV) nên hát quan họ cũng làm người ta mê ngang với nhan sắc của chị... Chị thường nhờ những đêm trăng sáng, tổ chức đám thanh niên tụ tập ở cái bãi sau nhà ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn đáp... đặc biệt về môn hát quan họ thì chị là bà chúa của dân ca! Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen buồn thăm thẳm với hàng mi cong và dài, đôi môi đã hồng lại còn cắn chỉ quết trầu, răng đen rưng rức hạt na.

    Chị Vinh ơi, viết đến đây em vẫn bồi hồi nhớ từng sợi tóc chị dán trên vầng trán, từng con mắt chị lúng liếng tình tứ, từng giọng hát, từng nụ cười. Em còn ngửi thấy hơi tóc ấm của chị thoảng mùi hương nhu mới gội buổi chiều. Cả suối tóc ấy làm thành thế giới say mê của riêng em từ độ ấy đến ngày nay, dẫu tóc em đã trắng hết, em vẫn có thể vẽ đúng chân dung chị tuyệt vời. Ảnh chị in màu trong hồn em, không một nhà khoa học nào có thể làm ra cho em được những tấm ảnh như em đang có, vẫn còn đầy đủ và tươi tắn, nguyên vẹn từ hơn sáu chục năm rồi đấy, chị ơi!...”.


    Hoàng Cầm và di ảnh người vợ sau cùng Lê Hoàng Yến - Ảnh: tư liệu

    6+9Một buổi chiều của dịp lễ Giáng sinh năm 1934, nắng hanh vàng rộm, gió lạnh se se, thấy chị Vinh “diện” váy kiểu Đình Bảng, áo lụa cánh mỡ gà, bên ngoài áo ghi lê tím, bên trong yếm nhạt cánh sen, lưng thắt dải lụa đào, bước thoăn thoắt ra cánh đồng còn trơ gốc rạ dưới chân dãy núi Neo, cậu bé 12 tuổi lập tức “vọt” theo... Chị đi trên bờ ruộng, cứ vạch từng búi cỏ đầu bờ hoặc ở những bụi cây trên mấy gò nhỏ rồi cắm cúi tìm... Cứ thế, chị đi trước và tìm, cậu bé lẽo đẽo theo sau. Bỗng chị quay lại mắng: “Ơ hay! Sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng thế nhỉ?”.

    Cậu bé tự ái muốn bật khóc, nhưng cố nuốt nghẹn bước theo chị. Hình như chị có thoáng thấy nên... mỉm cười. Khi chị bước qua bờ ruộng khác thì cậu bé không kìm được, bật hỏi: “Chị Vinh ơi, chị tìm gì thế?”. Bỗng chị quay lại, nhìn thẳng vào mắt cậu bé, giọng bỡn cợt: “Chị tìm, tìm cái lá... ấy đấy. Đứa nào tìm được cái lá... ấy thì ta gọi là chồng!”. Dù chỉ mới 12 tuổi, cậu bé cũng nhận ra chị Vinh đã thay đổi cách xưng hô, từ “tao, mày”, rồi “chị”, đến “ta”. Cái lá mà chị Vinh nói có lẽ là một thứ lá có thật, nhưng rất khó kiếm. Cuối năm đó, khi chị Vinh đi lấy chồng thì cậu bé quên mất tên chiếc lá mà chị Vinh “đùa trên sự đau khổ” của mình...

    Đúng 25 năm sau, một đêm mùa rét cuối năm 1959, trong một thoáng xuất thần - như có một giọng nữ đọc cho Hoàng Cầm chép một mạch bài thơ Lá diêu bông. Và, 60 năm sau - thi sĩ Hoàng Cầm ghi lại những câu văn thật cảm động: “Ngay lúc ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi cũng đã nghĩ ngay ra rằng chiếc lá ấy rất hiếm, rất khó tìm. Chẳng thế mà chị đi hết bờ này bãi nọ, gần cả một buổi chiều mà có thấy được đâu! Cái lá oái oăm thế, chị mới trêu đùa thằng bé mà chị biết là nó đang say mê mình, nó “phải lòng” mình từ 5 năm nay rồi còn gì! “Đứa nào tìm được... ta gọi là chồng!”. Chị Vinh ơi, bây giờ chị ở cõi nào, nếu còn sống, chị đã gần tám mươi đấy chứ, sao hôm nay em đã ngoài bảy mươi, lúc em viết những trang nhớ lại này, em hoàn toàn vẫn là đứa em 12 tuổi đang theo chị và chị vẫn đang tuổi hai mươi ngoài cánh đồng làng Như Thiết ấy, chị vẫn trẻ đẹp diệu kỳ, chị ơi!...”.

  6. #6

    Ngày tham gia
    Jan 2014
    Bài viết
    0
    Trích dẫn Gửi bởi Head
    Em lập thớt này dành cho các bác mê dòng nhạc tiền chiến (mà em là 1 fan trung thành ). Đây là loạt bài của Hà Đình Nguyên đăng trên báo Thanh niên. Các bác có bài hoặc clip hay thì post để cả nhà cùng thưởng thức nhé.
    Em cũng là fan trung thành của nhạc tiền chiến.

    Không phải là người hoài cổ nhưng em thấy giai điệu, ca từ của dòng nhạc này rất dễ đi vào lòng người, khiến nó trở nên bất tử

  7. #7

    Ngày tham gia
    Sep 2013
    Bài viết
    0
    Sinh thời, nhạc sĩ Trần Hoàn luôn tự nhận mình là “nhạc sĩ không chuyên”, bởi trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, ông đều được bố trí vào những chức vụ quản lý. Tuy thế, gia tài âm nhạc mà ông để lại hầu hết là những ca khúc tuyệt hay.

    Để có được những ca khúc đó, chắc chắn là nhờ sau lưng ông có một “thiên thần hộ mệnh”. Người ấy lúc ở gần thì động viên, phà hơi tiếp sức cho ông thêm nguồn cảm hứng, lúc cách xa lại là tâm điểm ông hướng về để sáng tác. Người ấy chính là người bạn đời đầu ấp, tay gối của ông: Nguyễn Thanh Hồng.

    Trần Hoàn tên thật là Nguyễn Tăng Hích, quê Quảng Trị. Ông là con của một công chức nhỏ thời Pháp thuộc, mẹ ông hát dân ca miền Trung, hát ví dặm rất hay (vợ ông gốc Nghệ An cũng rất giỏi dân ca, cho nên những bài hát mang âm điệu dân ca miền Trung, ví dặm của ông như: Lời người ra đi, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Vỗ bến Lam chiều…thành công được là nhờ hai người ấy). Nhờ những câu ru của mẹ mà tính cách nghệ sĩ trong con người Nguyễn Tăng Hích dần dần hình thành. Và những sáng tác đầu tay của ông ra đời trong những ngày đầu sục sôi không khí Cách mạng tháng Tám (1945): Học sinh vui tươi, Trên đường về, Hồn nước… Trong một cuộc thi âm nhạc cấp địa phương, bài Hồn nước đã được trao giải, đó cũng là bệ phóng để chàng trai trẻ tâm nguyện suốt đời cống hiến cho đất nước, cho âm nhạc. Mê bài hát Thiên thai của Văn Cao, thích nhất là câu đào nguyên xưa Lưu Nguyễn quên trần hoàn. Vậy là lấy ngay chữ “trần hoàn” làm tên của mình, thay cho Tăng Hích nghe có vẻ “lấy sức mà đẩy”!


    Vợ chồng nhạc sĩ Trần Hoàn lúc trẻ


    Thư tình viết trên thông báo


    Sau Cách mạng tháng Tám, ông vào chiến khu Quảng Bình rồi trở thành người phụ trách Đội tuyên truyền văn nghệ, địa bàn hoạt động của Trần Hoàn trải dài khắp Bắc Trung bộ (khu 4). Một hôm trong giờ giải lao, anh em đang đánh cờ tướng, reo hò ầm ĩ, bỗng… im bặt vì mẹ Thiệng đang đi vô. Họ im không phải vì mẹ Thiệng mà là phía sau mẹ, một cô gái với mái tóc xõa ngang vai, đôi mắt bạo dạn, miệng chúm chím cười duyên dáng. Dù trang phục chỉ là chiếc áo nâu mộc mạc nhưng nhan sắc ấy đủ làm sáng bừng một góc chiến khu khiến các chiến sĩ đang reo hò bỗng im re! Và từ lúc đó, hình bóng duyên dáng của cô “hoa khôi” Huyện ủy viên huyện Thanh Chương (Nghệ An) đã in sâu vào tiềm thức của chàng nghệ sĩ trẻ. Mãi một thời gian sau Trần Hoàn mới đánh liều viết vào mặt sau tờ thông báo của Sở Thông tin: “Hồng, em có nhận lời làm vợ anh không?” và trao cho người ấy. Chị đỏ mặt nhưng nhanh chóng trả lời liền: “Không, anh ạ!”. “Vì sao?”. “Vì… anh là một nghệ sĩ!”. Nói thì nói thế thôi, chứ ai mà chẳng xao xuyến trước một cán bộ đẹp trai, đa tài như anh. Lễ cưới của họ diễn ra khi chị vừa 19 tuổi. Đêm tân hôn vào mùa trăng non, trong căn nhà của mẹ Thiệng (mẹ chị Hồng), họ dìu nhau ngồi bên song cửa nhìn ra phía trước sân có mấy tàu cau khô, xa xa là bãi mía… và chú rể viết tặng cô dâu ca khúc Hoàng hôn đêm trăng với những câu: Ngồi tì tay trên gối bâng khuâng. Nhìn qua song trông thấy đêm trăng. Mía xao xác trong cây gió đàn. Tàu cau khô rung đôi lá vàng. Vầng trăng như chia sẻ đôi bên. Nửa in gối chiếc, nửa cô đơn… Nhưng chỉ sau tuần trăng mật ngắn ngủi, ông phải chuyển ra Bắc, phụ trách hoạt động văn nghệ trong lòng địch vùng tả ngạn sông Hồng. Trong những giờ phút lưu luyến chuẩn bị chia tay của đôi vợ chồng vừa mới cưới, ông làm tặng vợ bài Lời người ra đi: Một chiều anh bước đi, em tiễn chân anh tận cuối đồi. Nghe dặn lời: Rằng chiến đấu đừng sờn lòng. Rằng sóng gió đừng sờn lòng. Đừng nề gian khổ… Súng còn vang, dân lầm than, đây chiến trường thề quyết xông pha… Quả thật, trong hoàn cảnh ấy, phải “kiên gan” lắm Trần Hoàn mới có được những ca từ sắt son, kiên định như thế. Ngày nào nghe tiếng chim, ca líu lo trên cành hoa đào, em nhủ thầm, rằng bóng dáng người tình về, về đến bến đò đầu làng là giờ anh về… em ơi… Lời người ra đi là bài hát Trần Hoàn làm để riêng tặng người vợ mới cưới của mình nhưng đã trở thành bài hát chung của nhiều thế hệ thanh niên giã từ người yêu lên đường chiến đấu. Khởi đi từ đôi song ca Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết cho đến hôm nay đã có rất nhiều ca sĩ thể hiện ca khúc này mà một trong những ca sĩ hát thành công nhất là Bảo Yến.


    Bìa nhạc phẩm Lời người ra đi - Ảnh: T.L

    Nhạc sĩ Trần Hoàn qua đời ngày 23.11.2003 tại Hà Nội. Bà Thanh Hồng tính rằng họ lấy nhau được 53 năm nhưng phải trừ đi 15 năm xa nhau liên tục vì hoàn cảnh chiến tranh. Còn lại 38 năm họ đã ân cần chăm sóc nhau từng li từng tí. Nhưng, kể cả 15 năm xa cách và ngay ông đã đi vào cõi miên viễn thì bà vẫn tin chắc rằng “không giây phút nào tình yêu của họ phai nhạt”. Bằng chứng là sau khi ông mất, bà Thanh Hồng đã công bố tập sách Những lá thư vượt tuyến tập hợp khoảng 160 bức thư của hai ông bà gửi cho nhau khi nhạc sĩ Trần Hoàn đi chiến trường B. Tập sách này cùng với khoảng 600 ca khúc của ông đã được bà trao tặng cho Trung tâm lưu trữ quốc gia 3 vào năm 2011.

    Trong 600 ca khúc của nhạc sĩ Trần Hoàn, ông chỉ viết tặng vợ ông 4 ca khúc: Hoàng hôn đêm trăng, Lời người ra đi, Đợi anh về và Vỗ bến Lam chiều. Bài Vỗ bến Lam chiều tuy phổ từ thơ của Thúy Bắc nhưng Trần Hoàn thấy như chính mình viết cho người vợ son sắt, thủy chung: Mẹ sinh em bên dòng sông Lam, tóc hoen nắng gió, mặn mòi gió biển, bụi đỏ bám sao mà yêu mến thế! Vắt vẻo cầu tre lời hẹn níu bờ xa, dù chiến tranh phải xa, lòng không hề xa vắng. Âm vang đôi bờ câu hò ví dặm, theo anh qua trăm suối nghìn đèo...”. Và với bà, dù 53 năm chỉ có 4 bài, nhưng như thế là quá đủ cho tình yêu của họ.

  8. #8

    Ngày tham gia
    Oct 2013
    Bài viết
    0
    Những tình khúc Nửa hồn thương đau, Người đi qua đời tôi... của nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã quá quen thuộc với công chúng từ hơn nửa thế kỷ qua. Tuy nhiên, hoàn cảnh ra đời các ca khúc tuyệt vời này lại thấm đẫm một nỗi buồn...

    Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh năm 1929 tại Hà Nội trong một gia đình giàu truyền thống âm nhạc. Cha ông là một nghệ sĩ đàn tranh, còn mẹ ông là nghệ sĩ đàn bầu. Cả hai chơi đàn rất tuyệt.

    Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947 khi vừa 18 tuổi. Hầu hết những sáng tác của ông trong giai đoạn này có phong cách tươi trẻ, hùng tráng như Hò leo núi, Sáng rừng, Trăng rừng, Trăng Mường Luông, Ra đi khi trời vừa sáng (viết chung với Phạm Duy)...


    Phạm Đình Chương và ca sĩ Thái Thanh - Ảnh: Tư liệu

    Năm 1951, Phạm Đình Chương chuyển vào Nam, và ban hợp ca Thăng Long được thành lập với những thành viên là anh chị em ruột trong gia đình gồm: Hoài Trung (Phạm Đình Viêm), Thái Hằng (Phạm Thị Quang Thái), Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Thái Thanh (Phạm Thị Băng Thanh), đôi khi còn có sự góp mặt của ca sĩ Khánh Ngọc. Ban hợp ca này mau chóng trở nên nổi tiếng. Trong khoảng gần 10 năm tiếp theo, Phạm Đình Chương đã sáng tác được nhiều ca khúc tuyệt vời như Tiếng dân chài, Được mùa, Đợi chờ, Xóm đêm, Ly rượu mừng, Đón xuân... đặc biệt là trường ca Hội Trùng dương (Tiếng sông Hồng, Tiếng sông Hương và Tiếng sông Cửu Long).

    Trước đây, nhiều người từng cho rằng Phạm Đình Chương thật đáng tự hào khi là “sở hữu chủ” của một giai nhân kiều diễm và có một thân hình bốc lửa như nữ ca sĩ Khánh Ngọc (biệt danh “ngọn núi lửa”). Danh tiếng của Khánh Ngọc nổi như cồn trong khoảng 5 năm (từ 1955-1960), không chỉ trong lĩnh vực ca nhạc mà cả trong điện ảnh, cô nổi tiếng trước cả Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương... Sau biến cố được cho là do vợ ngoại tình, Phạm Đình Chương ly dị vợ, và ông được quyền nuôi đứa con trai (lúc đó khoảng 4-5 tuổi).

    Thời gian này, Phạm Đình Chương không còn tâm trí để cùng biểu diễn với ban hợp ca Thăng Long được nữa. Ông sống khép kín, ít giao thiệp với bên ngoài. Cũng từ đây, những bản tình ca ai oán của Phạm Đình Chương đã ra đời trong nước mắt. Những nốt nhạc là kết tinh của những cơn đau thương, của những hoài niệm xót xa, với những ca từ bi thiết, đó là những ca khúc: Đêm cuối cùng, Thuở ban đầu...

    Riêng với 2 ca khúc Người đi qua đời tôi và Nửa hồn thương đau thì trong tâm trạng đau đớn tột cùng bởi gia đình tan nát, chia lìa, Phạm Đình Chương đã tìm thấy sự đồng cảm từ bài thơ của Trần Dạ Từ: “Người đi qua đời tôi trong những chiều đông sầu. Mưa mù lên mấy vai, gió mù lên mấy trời. Người đi qua đời tôi, hồn lưng miền rét mướt. Vàng xưa đầy dấu chân, đen tối vùng lãng quên. Bàn tay mềm khói sương, tiếng hát nào hơ nóng. Và ai qua đời tôi, chiều âm vang ngàn sóng, trên lối về nghĩa trang... Người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao người... Em đi qua đời anh, không nhớ gì sao em” (Người đi qua đời tôi). Đặc biệt, từ bài thơ Lệ đá xanh của Thanh Tâm Tuyền, ông đã viết thêm ý rồi đổi tựa để thành ca khúc Nửa hồn thương đau bất hủ: “Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa, cho tôi về đường cũ nên thơ, cho tôi gặp người xưa ước mơ. Hay chỉ là giấc mơ thôi, nghe tình đang chết trong tôi, cho lòng tiếc nuối, xót thương suốt đời. Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau. Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau, hay ta còn hẹn nhau kiếp nào. Anh ở đâu? Em ở đâu? Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu. Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt, chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất, và tiếng hát, và nước mắt... Đôi khi em muốn tin... Ôi những người... Khóc lẻ loi một mình”.

    Ca khúc Nửa hồn thương đau được người em ruột của ông là ca sĩ Thái Thanh trình bày khiến những ai đã nghe qua khó thể quên được. Nhưng nếu trong một cơn say nào đó được chính tác giả hát lên thì người nghe mới thật sự xúc động. Giọng ca của Hoài Bắc vốn trầm và dội, sau cú sốc tình cảm quá lớn lại như có ướp thêm men rượu. Nếu như ai đã từng quen ngồi phòng trà Đêm màu hồng - tên một bản nhạc của Phạm Đình Chương phổ thơ Thanh Tâm Tuyền tại Sài Gòn vào những năm trước 1975, chắc chắn từng bắt gặp Phạm Đình Chương tay cầm ly rượu và điếu thuốc cháy dở, hát đơn ca bằng một chất giọng nhừa nhựa rất phiêu.


    Nhạc sĩ Phạm Đình Chương - Ảnh: Tư liệu

    Thực ra đây là ca khúc ông viết cho phim Chân trời tím. Đến lúc bộ phim sắp hoàn tất, bị nhắc nhở vì trễ hẹn và trong men say chếnh choáng Phạm Đình Chương đã trút hết nỗi đau của mình vào Nửa hồn thương đau.

    Khánh Ngọc sang Mỹ từ năm 1961 để học thêm về điện ảnh và đã có gia đình mới, nhạc sĩ Phạm Đình Chương từ trần tại California (Mỹ) năm 1991.

  9. #9

    Ngày tham gia
    Nov 2013
    Bài viết
    0
    Sinh thời, nhạc sĩ Y Vân được nhiều người đánh giá là rất đứng đắn trong chuyện tình cảm. Nhưng nếu cứ thế thì “chất liệu” đâu để làm nên những tình khúc: Ngăn cách, Xa vắng, Thôi, Ảo ảnh... từng làm say đắm lòng người?

    Hà Nội đêm Noel năm 1953, chàng thanh niên Trần Tấn Hậu (sinh năm 1933 tại Hà Nội, quê gốc Thanh Hóa) đi lang thang cùng với người bạn tên Nhân. Qua cửa Nhà thờ Lớn, phất phơ phía trước họ là hai tà áo dài tím, vàng. Hai chàng bèn đi theo. Tình cờ cô gái áo vàng quay lại, trái tim của Hậu như ngừng đập: một nhan sắc mê hồn. Kể từ giây phút ấy, đôi mắt của Hậu luôn dõi theo nét duyên dáng của cô gái áo vàng. Nhưng rồi nàng đã mất hút trong đám đông...

    Dạo ấy, Trần Tấn Hậu đang dạy nhạc ở Trường Dũng Lạc (anh là học trò của Giáo sư Tạ Phước) và cũng đang tập tành sáng tác. Mỗi lần đi dạy, từ ngõ chợ Khâm Thiên anh chọn con đường Tràng Thi để đi bộ đến trường. Một hôm, anh ghé vào hiệu sách, chưa kịp mua thì thấy cô áo vàng lần nọ bước vào tiệm đàn bên cạnh. Thế là chàng bỏ luôn hiệu sách, tót qua tiệm đàn giả vờ hỏi mua sách nhạc, lân la đến bên nàng rồi làm quen bằng cách nhiệt tình hướng dẫn đồng thời chọn mua cho nàng cây đàn tốt nhất. Sau đó, người bạn tên Kỳ tìm gặp rồi dẫn anh đến nhà người bà con giàu có, đầy thế lực, để anh dạy đàn cho con gái nhà này (cũng là em họ của Kỳ): vẫn là... nàng!


    Bìa bản nhạc Ảo ảnh do NXB Trẻ tái bản sau 1975 - Ảnh: tư liệu


    Chân dung nhạc sĩ Y Vân do con trai trưởng của ông vẽ - Ảnh: tư liệu

    Nàng tên là Tường Vân. Và từ đó tình yêu của họ mỗi ngày thêm khắng khít. Đến lúc này thì Tường Vân mới tiết lộ cho người yêu biết là cha mẹ đã hứa hôn nàng với một nơi rất “môn đăng hộ đối”, bất chấp sự phản đối của nàng. Khi gia đình biết được giữa con gái và anh nhạc sĩ nghèo đang nảy sinh tình cảm “đáng ngại” thì tìm cách ngăn cản, thậm chí còn tạo ra nhiều tình huống để vì lòng tự trọng, chàng nhạc sĩ phải chùn bước.

    Mồ côi cha, Trần Tấn Hậu phải dắt díu mẹ và hai em (một gái, một trai - sau này là nhạc sĩ Y Vũ) nương náu trong một túp lều xiêu vẹo ở ngõ chợ Khâm Thiên. Là con trưởng nên gánh nặng gia đình đè nặng lên vai Hậu. Anh đi dạy đàn để nuôi mẹ và các em (sự thảo hiếu của anh, có lẽ người Việt Nam nào cũng biết được qua bản nhạc bất hủ Lòng mẹ). Trước khi đoạn tuyệt với mối tình thật đẹp nhưng ngắn ngủi này, trong nhớ thương đau khổ anh đã sáng tác ca khúc Tình ta nở giữa mùa đông tặng người yêu. Bản nhạc được ký tên “Y Vân” và chàng giải thích “Y Vân có nghĩa là... yêu Vân”.

    Ảo ảnh

    Y Vân lập gia đình năm 1963, lúc này anh đã là trưởng ban nhạc Y Vân danh tiếng ở Sài Gòn (cùng với sự cộng tác của các ca sĩ Thanh Thoại, Tuyết Mai, Mai Hương...). Một buổi trưa năm 1965, từ đài phát thanh, Y Vân dắt xe máy ra cổng chuẩn bị về thì có một chú bé chạy đến mời anh vào quán nước cạnh đấy. Nơi đây, một thiếu nữ khá xinh ngồi chờ sẵn, chú bé giới thiệu đó là chị của mình, tên Huyền, đang là sinh viên Ban Việt-Hán, Đại học Văn khoa Sài Gòn. Huyền có đôi mắt to, đen và buồn. Trên bâu áo của nàng có chít một mảnh tang đen. Y Vân cố nhớ lại xem mình đã gặp cô gái này ở đâu chưa, nhưng chịu thua. Theo phép xã giao anh ngỏ lời chia buồn. Nhưng cô gái lắc đầu, buồn bã: “Em đâu có người thân nào qua đời. Mảnh tang này là dành cho mối tình của em đó!”. Y Vân sượng sùng, anh cũng manh nha đoán rằng phải có một điều bí ẩn gì đó mới khiến cô gái này vượt qua nỗi e dè thường thấy của phái nữ, không ngại điều thị phi để đánh bạo gặp anh, nhưng cũng khó mở miệng để hỏi, đành chỉ ngồi nói chuyện bâng quơ một lát rồi viện cớ cáo từ.

    Hai hôm sau, Y Vân tìm đến nhà Huyền theo địa chỉ cô đã cho. Đó là một căn nhà vách gỗ đơn sơ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ nằm bên chiếc ao rau muống trong con hẻm đường Trương Minh Giảng (gần chợ Phú Nhuận bây giờ). Huyền không có nhà nhưng cậu em trai đã thổ lộ với chàng nhạc sĩ những điều thầm kín của chị mình. Chú bé cho biết họ là con của một địa chủ tiếng tăm ở Long An, được gia đình gửi lên Sài Gòn trọ học. Huyền rất thích âm nhạc và ca hát, đặc biệt là thích nhạc của tác giả Y Vân. Những cuốn vở học trò của Huyền cũng được cô kẻ khung, chép nhạc (hầu hết là nhạc của Y Vân). Tiền gia đình gửi lên để Huyền hoàn tất chương trình cử nhân Văn khoa lại được nàng đem đóng học phí vào... lớp dạy đàn Tây Ban cầm. Suốt ngày Huyền chỉ ôm đàn và hát nhạc Y Vân.

    Việc học bê trễ, mấy năm liền chẳng đậu thêm được chứng chỉ nào. Thấy vậy, ông bố đã bắt hai chị em về quê, ép gả Huyền cho một anh trung úy hải quân. Huyền quyết liệt từ chối. Bẽ mặt với nhà trai, ông bố đăng báo từ con. Huyền đau khổ, trút tâm sự với em trai rằng đã yêu nhạc sĩ Y Vân. Sau khi bàn tính, hai chị em trốn nhà lên Sài Gòn, Huyền phải tìm việc làm để mưu sinh và nuôi hy vọng có ngày sẽ được cùng người trong mộng kết tóc se tơ. Sau nhiều lần dò hỏi, biết chắc nhạc sĩ Y Vân đã có gia đình, Huyền làm một mảnh tang đen, luôn đeo nó trên bâu áo.

    Nhưng lòng nàng lúc nào cũng tơ tưởng đến nhạc sĩ tài hoa. Nàng đã nhờ em trai tìm cách cho nàng gặp anh để nói với anh điều này. Nhưng khi gặp, nàng lại không dám nói. Y Vân ra về như chạy. Và ca khúc Ảo ảnh ra đời sau đó: “...Những ân tình em đong bằng nước mắt. Khóc cho đầy hai chữ tình yêu. Phấn hương nồng anh xem tựa tấm áo, đã thay màu ân ái từ lâu. Những neo thuyền yêu thương thường dễ đứt, khiến bao chiều trên bến tịch liêu. Vắng con tàu sân ga thường héo hắt. Thiếu em lòng anh thấy quạnh hiu...”.

  10. #10

    Ngày tham gia
    Dec 2013
    Bài viết
    0
    Sinh thời, nhạc sĩ Y Vân được nhiều người đánh giá là rất đứng đắn trong chuyện tình cảm. Nhưng nếu cứ thế thì “chất liệu” đâu để làm nên những tình khúc: Ngăn cách, Xa vắng, Thôi, Ảo ảnh... từng làm say đắm lòng người?

    Hà Nội đêm Noel năm 1953, chàng thanh niên Trần Tấn Hậu (sinh năm 1933 tại Hà Nội, quê gốc Thanh Hóa) đi lang thang cùng với người bạn tên Nhân. Qua cửa Nhà thờ Lớn, phất phơ phía trước họ là hai tà áo dài tím, vàng. Hai chàng bèn đi theo. Tình cờ cô gái áo vàng quay lại, trái tim của Hậu như ngừng đập: một nhan sắc mê hồn. Kể từ giây phút ấy, đôi mắt của Hậu luôn dõi theo nét duyên dáng của cô gái áo vàng. Nhưng rồi nàng đã mất hút trong đám đông...

    Dạo ấy, Trần Tấn Hậu đang dạy nhạc ở Trường Dũng Lạc (anh là học trò của Giáo sư Tạ Phước) và cũng đang tập tành sáng tác. Mỗi lần đi dạy, từ ngõ chợ Khâm Thiên anh chọn con đường Tràng Thi để đi bộ đến trường. Một hôm, anh ghé vào hiệu sách, chưa kịp mua thì thấy cô áo vàng lần nọ bước vào tiệm đàn bên cạnh. Thế là chàng bỏ luôn hiệu sách, tót qua tiệm đàn giả vờ hỏi mua sách nhạc, lân la đến bên nàng rồi làm quen bằng cách nhiệt tình hướng dẫn đồng thời chọn mua cho nàng cây đàn tốt nhất. Sau đó, người bạn tên Kỳ tìm gặp rồi dẫn anh đến nhà người bà con giàu có, đầy thế lực, để anh dạy đàn cho con gái nhà này (cũng là em họ của Kỳ): vẫn là... nàng!


    Bìa bản nhạc Ảo ảnh do NXB Trẻ tái bản sau 1975 - Ảnh: tư liệu


    Chân dung nhạc sĩ Y Vân do con trai trưởng của ông vẽ - Ảnh: tư liệu

    Nàng tên là Tường Vân. Và từ đó tình yêu của họ mỗi ngày thêm khắng khít. Đến lúc này thì Tường Vân mới tiết lộ cho người yêu biết là cha mẹ đã hứa hôn nàng với một nơi rất “môn đăng hộ đối”, bất chấp sự phản đối của nàng. Khi gia đình biết được giữa con gái và anh nhạc sĩ nghèo đang nảy sinh tình cảm “đáng ngại” thì tìm cách ngăn cản, thậm chí còn tạo ra nhiều tình huống để vì lòng tự trọng, chàng nhạc sĩ phải chùn bước.

    Mồ côi cha, Trần Tấn Hậu phải dắt díu mẹ và hai em (một gái, một trai - sau này là nhạc sĩ Y Vũ) nương náu trong một túp lều xiêu vẹo ở ngõ chợ Khâm Thiên. Là con trưởng nên gánh nặng gia đình đè nặng lên vai Hậu. Anh đi dạy đàn để nuôi mẹ và các em (sự thảo hiếu của anh, có lẽ người Việt Nam nào cũng biết được qua bản nhạc bất hủ Lòng mẹ). Trước khi đoạn tuyệt với mối tình thật đẹp nhưng ngắn ngủi này, trong nhớ thương đau khổ anh đã sáng tác ca khúc Tình ta nở giữa mùa đông tặng người yêu. Bản nhạc được ký tên “Y Vân” và chàng giải thích “Y Vân có nghĩa là... yêu Vân”.

    Ảo ảnh

    Y Vân lập gia đình năm 1963, lúc này anh đã là trưởng ban nhạc Y Vân danh tiếng ở Sài Gòn (cùng với sự cộng tác của các ca sĩ Thanh Thoại, Tuyết Mai, Mai Hương...). Một buổi trưa năm 1965, từ đài phát thanh, Y Vân dắt xe máy ra cổng chuẩn bị về thì có một chú bé chạy đến mời anh vào quán nước cạnh đấy. Nơi đây, một thiếu nữ khá xinh ngồi chờ sẵn, chú bé giới thiệu đó là chị của mình, tên Huyền, đang là sinh viên Ban Việt-Hán, Đại học Văn khoa Sài Gòn. Huyền có đôi mắt to, đen và buồn. Trên bâu áo của nàng có chít một mảnh tang đen. Y Vân cố nhớ lại xem mình đã gặp cô gái này ở đâu chưa, nhưng chịu thua. Theo phép xã giao anh ngỏ lời chia buồn. Nhưng cô gái lắc đầu, buồn bã: “Em đâu có người thân nào qua đời. Mảnh tang này là dành cho mối tình của em đó!”. Y Vân sượng sùng, anh cũng manh nha đoán rằng phải có một điều bí ẩn gì đó mới khiến cô gái này vượt qua nỗi e dè thường thấy của phái nữ, không ngại điều thị phi để đánh bạo gặp anh, nhưng cũng khó mở miệng để hỏi, đành chỉ ngồi nói chuyện bâng quơ một lát rồi viện cớ cáo từ.

    Hai hôm sau, Y Vân tìm đến nhà Huyền theo địa chỉ cô đã cho. Đó là một căn nhà vách gỗ đơn sơ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ nằm bên chiếc ao rau muống trong con hẻm đường Trương Minh Giảng (gần chợ Phú Nhuận bây giờ). Huyền không có nhà nhưng cậu em trai đã thổ lộ với chàng nhạc sĩ những điều thầm kín của chị mình. Chú bé cho biết họ là con của một địa chủ tiếng tăm ở Long An, được gia đình gửi lên Sài Gòn trọ học. Huyền rất thích âm nhạc và ca hát, đặc biệt là thích nhạc của tác giả Y Vân. Những cuốn vở học trò của Huyền cũng được cô kẻ khung, chép nhạc (hầu hết là nhạc của Y Vân). Tiền gia đình gửi lên để Huyền hoàn tất chương trình cử nhân Văn khoa lại được nàng đem đóng học phí vào... lớp dạy đàn Tây Ban cầm. Suốt ngày Huyền chỉ ôm đàn và hát nhạc Y Vân.

    Việc học bê trễ, mấy năm liền chẳng đậu thêm được chứng chỉ nào. Thấy vậy, ông bố đã bắt hai chị em về quê, ép gả Huyền cho một anh trung úy hải quân. Huyền quyết liệt từ chối. Bẽ mặt với nhà trai, ông bố đăng báo từ con. Huyền đau khổ, trút tâm sự với em trai rằng đã yêu nhạc sĩ Y Vân. Sau khi bàn tính, hai chị em trốn nhà lên Sài Gòn, Huyền phải tìm việc làm để mưu sinh và nuôi hy vọng có ngày sẽ được cùng người trong mộng kết tóc se tơ. Sau nhiều lần dò hỏi, biết chắc nhạc sĩ Y Vân đã có gia đình, Huyền làm một mảnh tang đen, luôn đeo nó trên bâu áo.

    Nhưng lòng nàng lúc nào cũng tơ tưởng đến nhạc sĩ tài hoa. Nàng đã nhờ em trai tìm cách cho nàng gặp anh để nói với anh điều này. Nhưng khi gặp, nàng lại không dám nói. Y Vân ra về như chạy. Và ca khúc Ảo ảnh ra đời sau đó: “...Những ân tình em đong bằng nước mắt. Khóc cho đầy hai chữ tình yêu. Phấn hương nồng anh xem tựa tấm áo, đã thay màu ân ái từ lâu. Những neo thuyền yêu thương thường dễ đứt, khiến bao chiều trên bến tịch liêu. Vắng con tàu sân ga thường héo hắt. Thiếu em lòng anh thấy quạnh hiu...”.

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •