Hiện nay An Giang đã có 53 đường cung cấp nước sạch ở thành phố, thị xã, thị trấn, khu dân cư tập trung với tổng công suất 60.000 m3/ngày và tổng sản lượng 20 triệu m3/năm.
Hiện An Giang còn có nhà máy nước Thành Phố Long Xuyên công suất 34.000 m3/ngày, chất lượng nước tiêu chuẩn quốc gia, nhà máy nước này có được từ nguồn vốn ADB cho vay ưu đãi, khoảng 14 triệu USD.
Ngòai ra còn nâng tầm thêm hạ tầng được nhà máy nước khoáng dựa vào mỏ nước khoáng ở huyện Tri Tôn: nhà máy với năng lực 10 triệu lít/năm, sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, sử dụng cho người dưới dạng đóng chai có gaz và không có gaz.
Đường cung cấp Điện
đường cung cấp điện trên địa bàn tỉnh khá mở rộng và tăng cường. Lưới điện quốc gia đã đến vùng 100% số xã của tỉnh với tổng chiều dài: 1.200 km đường dây trung thế, 1.300 km đường dây hạ thế và 1.410 trạm biến áp các lọai tổng dung lượng 96.242 KVA.
Phục vụ thiết thực cho quá trình sản xuất và các ngành kinh tế và 88 % hộ dân cư ở
nông thôn.
Đường|Hệ thống} thông tin liên lạc
đường bưu chính năm 2005 với 12 bưu điện huyện, thị, thành; 38 bưu điện nông thôn và 91 điểm bưu điện - văn hóa xã, bán kính phục vụ bình quân 2.83 km2/điểm, đủ khả năng chuyển thư, điện tín, báo chí, bưu phẩm, bưu kiện thông suốt trong và ngoài nước.
Các tổng đài điện tử đáp ứng liên lạc trực tiếp nội tỉnh, trong và ngoài nước nhanh chóng. Năm 2005 có 114 tổng đài điện thoại. Tổng số máy điện thoại đã nâng tầm trong năm 2005 là 149.205 máy (trong đó máy cố định 107.677 máy, máy di động là 41.528 máy). Mật độ điện thoại trung bình là 4,9 máy/100 dân (chỉ tính máy cố định). Số thuê bao Internet đến cuối tháng 11/2005 là 6.428 máy. Hiện nay tất cả 154 xã phường trong tỉnh có điện thoại.
Để mở rộng quy mô kinh tế- xã hội nói chung và du lịch nói riêng thì thông tin liên lạc phải đi trước và phải bắt kịp thời đại. Chính vì vậy mà ngành thông tin liên lạc luôn luôn được đầu tư





lớn với những công nghệ mới của Thế Giới và nhằm phục vụ kịp thời cho nhu cầu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Từ năm 2003, Tổng cục Bưu Điện đã đồng loạt giảm giá cước các loại hình dịch vụ viễn thông trong nước và quốc tế. Hiện nay đã củng cố thêm hạ tầng hoàn chỉnh hạ tầng viễn thông hiện đại như Internet, truyền hình Cáp…Đây là điều kiện thuận tiện để thu hút khách từ nơi khác đến đến Việt Nam nói chung và từng vùng nói riêng mà trong đó có An Giang.
CHÍNH SÁCH VÀ HỢP TÁC ĐẦU TƯ
Các chính sách
Nhận thấy tầm quan trọng của ngành du lịch. Đảng và Nhà Nước đã ban hành nhiều chính sách phát triển du lịch nhắm tạo điều kiện cho ngành du lịch mở rộng thông qua lượng khách từ nơi khác đến trong nước và quốc tế tăng, thu ngoại tệ, giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy các ngành liên quan phát triển, tăng thu nhập cho nhân dân cũng như đóng góp vào thu nhập quốc dân…và đến năm 2005, du lịch Việt Nam đã trở thành ngành mũi nhọn.
Một số văn bản được ban hành:
• Chỉ thị 46/BCH TW ngày 14/10/1994 của Ban bí thư TW về lãnh đạo đổi mới mở rộng du lịch trong tình hình mới.
• Pháp lệnh xuất, nhập cảnh, cư trú, đi lại cho người tại Việt Nam ngày 21/12/1992.
• Nghị quyết số 45 – CP của Chính phủ ngày 22/06/1993 về đổi mới quản lý và mở rộng du lịch. Xem thêm du lịch núi Cấm An Giang

• Nghị quyết hội nghị lần thứ VII của BCHTW Đảng khóa VII ngày 30/07/1994 về mở rộng quy mô du lịch.

• Quyết định số 307 – TT ngày 25/05/1995 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Hạ tầng vui chơi giải trí ở An Giang phục vụ du lịch
• Quyết định số 177/TCDL của Tổng cục trưởng Tổng cục du lịch về quy hoạch tổng thể mở rộng và tăng cường du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010.


Ngoài ra, còn rất nhiều văn bản liên ngành, các bộ luật có liên quan như luật đầu tư, luật bảo vệ môi trường…đã tạo hành lang pháp lý phù hợp cho du lịch mở rộng quy mô.